TS Vũ Minh Khương: Lãi suất trái phiếu của Việt Nam rất cao so với thế giới

Lãi suất huy động kênh trái phiếu doanh nghiệp quá cao, tới 13%, khiến doanh nghiệp gặp rủi ro, khó khăn, theo TS Vũ Minh Khương – đang công tác tại Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Singapore.

Trái phiếu – kênh huy động vốn quan trọng, bên cạnh tín dụng, rơi vào khó khăn từ năm ngoái sau khi một số doanh nghiệp phát hành lớn vướng vào khủng khoảng pháp lý.

Tại tọa đàm “Ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển thị trường trái phiếu” ngày 28/5, TS. Vũ Minh Khương, Giảng viên Trường Chính sách công Lý Quang Diệu (Singapore) cho rằng, rủi ro thị trường vừa qua một phần do lãi suất cao.

Theo ông, lãi suất phát hành quá cao trong bối cảnh tiền đồng ổn định so với USD khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn.

“Lãi suất 13% so với thế giới là rất cao. Nếu dùng đòn bẩy quá cao, tức là hầu hết dựa vào trái phiếu, để đầu tư xây dựng thì càng khó nữa vì dễ bị lỗ”, ông nói.

Trong khi đó, GS. TS Hoàng Văn Cường, Phó hiệu trưởng Đại học Kinh tế Quốc dân nhận xét, rủi ro của thị trường trái phiếu đến từ chính doanh nghiệp, nhà đầu tư. Ông Cường phân tích, doanh nghiệp phát hành trái phiếu dễ dàng, dẫn đến tình trạng những yếu tố để bảo đảm cho giá trị trái phiếu không có cơ sở.

Trái phiếu này phần lớn phát hành riêng lẻ, theo quy định chỉ dành cho nhà đầu tư chuyên nghiệp hoặc nhà đầu tư tổ chức. Song thực tế phần lớn nhà đầu tư cá nhân mua trái phiếu với suy nghĩ giống như gửi ngân hàng. Khi xảy ra sự cố, thị trường này rơi vào khó khăn, phát hành mới giảm sâu.

Để vực lại thị trường vốn quan trọng này, TS Vũ Minh Khương nói, Việt Nam cần xây dựng hệ sinh thái trái phiếu lành mạnh.

TS Khương dẫn kinh nghiệm nhiều quốc gia, hiện trái phiếu được phát hành theo 3 loại. Một là phát hành trái phiếu có bảo hiểm, giúp nhà đầu tư yên tâm bỏ tiền, vì bảo hiểm kiểm tra rất kỹ chất lượng trái phiếu.

Hai là phát hành trái phiếu có bảo lãnh. Cuối cùng, trái phiếu không có bảo lãnh, bảo hiểm thì cần ít nhất thẩm định qua đánh giá của các đơn vị chuyên nghiệp.

Theo ông, hiện một số quốc gia không chú ý đầu tư nâng cấp hệ sinh thái cho trái phiếu nên khó phát triển, như Indonesia hay Philippines chỉ phát hành được lượng trái phiếu rất nhỏ. Trong khi ở Hàn Quốc, họ có thể phát hành cả nghìn tỷ USD.

“Xây dựng một nền tảng cho hệ thống tài chính lành mạnh cho tương lai của Việt Nam là vấn đề rất cấp bách”, ông nêu quan điểm.

Theo dữ liệu của Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), phát hành trái phiếu doanh nghiệp mới trong tháng 4/2023 gần như đóng băng, trong khi doanh nghiệp chạy đua mua lại trái phiếu trước hạn và thỏa thuận với trái chủ để kéo dài kỳ hạn trả nợ.

Lũy kế đến đầu tháng 5, tổng lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp gần 31.700 tỷ đồng, trong đó trái phiếu riêng lẻ chiếm 83%. Các doanh nghiệp đã mua lại gần 49.500 tỷ đồng trái phiếu trước hạn, tăng 48% cùng kỳ 2022.

Giá trị trái phiếu đến hạn trong tháng 5 là hơn 21.400 tỷ đồng, trong đó 45% là bất động sản (9.600 tỷ), hàng tiêu dùng chiếm 17%; ngân hàng và nguyên vật liệu lần lượt 12% và 14%.

Theo GS Hoàng Văn Cường, hiện nhiều doanh nghiệp năng lực tốt cũng khó huy động qua phát hành trái phiếu. Doanh nghiệp yếu không có nguồn tiền trả lãi trái phiếu khi đáo hạn. Những yếu tố này, theo ông, tạo ra sức ép lớn cho nhiều doanh nghiệp và thị trường trái phiếu chưa thể khởi sắc ngay.

Dù vậy, TS. Vũ Minh Khương cho rằng, không ít quốc gia phát triển nhờ huy động vốn qua phát hành trái phiếu. Chẳng hạn, Hàn Quốc, 18 địa phương phát hành trái phiếu xây dựng đường sắt, tàu điện ngầm. Tức là đồng vốn cần được rót vào đầu tư những lĩnh vực, cơ sở hạ tầng tạo giá trị.

“Việc đầu tư vào những cái tạo ra giá trị thì chúng ta không tiếc tiền, không tiếc sức để vay. Khi một đồng được đầu tư vào những thứ chuẩn xác, đúng hướng sẽ tạo ra nhiều lời lãi, giúp tăng trưởng rất nhanh”, ông Khương nhận xét.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *